1. Phương
pháp dạy học là gì? Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức
tạp và đa dạng. Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Trong tài
liệu này, PPDH được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa GV
và HS, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học. PPDH có ba bình diện: - Bình diện vĩ mô là quan điểm về PPDH. Ví dụ:
Dạy học hướng vào người học, dạy học phát huy tính tích cực của HS,… Quan điểm dạy học là những định hướng tổng thể
cho các hành động phương pháp, trong đó có sự kết hợp giữa các nguyên tắc dạy
học, những cơ sở lí thuyết của lí luận dạy học, những điều kiện dạy học và tổ
chức cũng như những định hướng về vai trò của GV và HS trong quá trình dạy
học. Quan điểm dạy học là những định hướng mang tính chiến lược, cương lĩnh,
là mô hình lí thuyết của PPDH. - Bình diện trung gian là PPDH cụ thể. Ví dụ:
phương pháp đóng vai, thảo luận, nghiên cứu trường hợp điển hình, xử lí tình
huống, trò chơi, … Ở bình diện này khái niệm PPDH được hiểu với nghĩa hẹp, là
những hình thức, cách thức hành động của GV và HS nhằm thực hiện những mục
tiêu dạy học xác định, phù hợp với những nội dung và điều kiện dạy học cụ
thể. PPDH cụ thể quy định những mô hình hành động của GV và HS. Trong mô hình
này thường không có sự phân biệt giữa PPDH và hình thức dạy học (HTDH). Các
hình thức tổ chức hay hình thức xã hội (như dạy học theo nhóm) cũng được gọi
là các PPDH. - Bình diện vi mô là Kĩ thuật dạy học . Ví dụ: kĩ
thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn
trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh ghép, kĩ thuật hỏi chuyên
gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,... Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách
thức hành động của GV trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và
điều khiển quá trình dạy học. Các KTDH chưa phải là các PPDH độc lập mà là
những thành phần của PPDH. Ví dụ, trong phương pháp thảo luận nhóm có các kĩ
thuật dạy học như: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng
tranh, kĩ thuật các mảnh ghép, ... Tóm lại, QĐDH là khái niệm rộng, định hướng cho
việc lựa chọn các PPDH cụ thể. Các PPDH là khái niệm hẹp hơn, đưa ra mô hình
hành động. KTDH là khái niệm nhỏ nhất, thực hiện các tình huống hành động. * Một
số lưu ý: - Mỗi QĐDH có những PPDH cụ thể phù hợp với nó;
mỗi PPDH cụ thể có các KTDH đặc thù. Tuy nhiên, có những PPDH cụ thể phù hợp
với nhiều QĐDH, cũng như có những KTDH được sử dụng trong nhiều PPDH khác
nhau (Ví dụ: kĩ thuật đặt câu hỏi được dùng cho cả phương pháp đàm thoại và
phương pháp thảo luận). - Việc phân biệt giữa PPDH và KTDH chỉ mang tính
tương đối, nhiều khi không rõ ràng. Ví dụ, động não (Brainstorming) có trường
hợp được coi là phương pháp, có trường hợp lại được coi là một KTDH. - Có những PPDH chung cho nhiều môn học, nhưng có
những PPDH đặc thù của từng môn học hoặc nhóm môn học. - Có thể có nhiều tên gọi khác nhau cho một PPDH
hoặc KTDH. Ví dụ: Brainstorming có người gọi là động não, có người gọi là
công não hoặc tấn công não,... Dưới
đây chúng tôi xin trình bày một số PPDH và KTDH có ưu thế trong việc phát huy
tính tích cực học tập của HS (thường gọi tắt là PPDH , KTDH tích cực) có thể
sử dụng để giáo dục KNS cho HS phổ thông trong quá trình dạy học các môn học
và tổ chức các HĐGD NGLL. 2. Một số phương pháp dạy học tích cực 2.1.
Phương pháp dạy học nhóm * Bản
chất Dạy
học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học
theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ,
trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học
tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau
đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Dạy
học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách
nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS. * Quy
trình thực hiện Tiến
trình dạy học nhóm có thể được chia thành 3 giai đoạn cơ bản: a.
Làm việc toàn lớp : Nhập đề và giao nhiệm vụ -
Giới thiệu chủ đề - Xác
định nhiệm vụ các nhóm -
Thành lập nhóm b.
Làm việc nhóm -
Chuẩn bị chỗ làm việc - Lập
kế hoạch làm việc -
Thoả thuận quy tắc làm việc -
Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ -
Chuẩn bị báo cáo kết quả. c.
Làm việc toàn lớp: Trình bày kết quả, đánh giá - Các
nhóm trình bày kết quả -
Đánh giá kết quả. * Một
số lưu ý Có
rất nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp
dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. Số lượng HS/1 nhóm nên từ 4- 6
HS. Nhiệm
vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau,
là các phần trong một chủ đề chung. Dạy
học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học
hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới. Các
câu hỏi kiểm tra dùng cho việc chuẩn bị dạy học nhóm:
- Chủ đề có hợp với dạy học nhóm không?
- Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống hay khác
nhau?
- HS đã có đủ kiến thức điều kiện cho công
việc nhóm chưa?
- Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm như thế
nào?
- Cần chia nhóm theo tiêu chí nào?
- Cần tổ chức phòng làm việc, kê bàn ghế như
thế nào? * Các
kỹ thuật chia nhóm: Khi
tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác
nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi,
giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số cách chia
nhóm: a/
Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa
trong năm,...: - GV
yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm GV muốn có là 4,5 hay
6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím, vàng,...); hoặc điểm
danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,...); hay điểm danh theo các mùa
(xuân, hạ, thu, đông,...) - Yêu
cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một loài hoa/cùng
một mùa sẽ vào cùng một nhóm. b/
Chia nhóm theo hình ghép - GV
cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số HS muốn có
là 3/4/5... HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng với số nhóm
mà GV muốn có. - HS
bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt. - HS
phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình hoàn
chỉnh. -
Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm. c/
Chia nhóm theo sở thích GV có
thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể cùng thực hiện một
công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm dưới các hình
thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm Nhà thơ, Nhóm
Hùng biện,... d/
Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một nhóm. Ngoài
ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn hợp,
nhóm theo giới tính,.... 2.2.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình * Bản
chất Nghiên
cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc
chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống thực
tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đôi khi nghiên cứu
trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà
không phải trên văn bản viết. * Quy
trình thực hiện Các
bước nghiên cứu trường hợp điển hình có thể là: - HS
đọc (hoặc xem, hoặc nghe) về trường hợp điển hình - Suy
nghĩ về nó (có thể viết một vài suy nghĩ trước khi thảo luận điều đó với
người khác). -
Thảo luận về trường hợp điển hình theo các câu hỏi hướng dẫn của GV. * Một
số lưu ý - Vì
trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống
thực, nên nó phải tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình
huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản. -
Trường hợp điển hình có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề song phải
phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ HS và thời lượng cho phép. - Tùy
từng trường hợp, có thể tổ chức cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp
điển hình hoặc phân công mỗi nhóm nghiên cứu một trường hợp khác nhau. 2.3.
Phương pháp giải quyết vấn đề
* Bản chất
Dạy học (DH) phát hiện và giải quyết vấn đề
(GQVĐ) là PPDH đặt ra trước HS các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu
thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển HS vào tình huống có vấn đề ,
kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề.
* Quy trình thực hiện - Xác
định, nhận dạng vấn đề/tình huống; -
Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề/tình huống đặt ra; -
Liệt kê các cách giải quyết có thể có ; -
Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết ( tích cực, hạn chế, cảm xúc,
giá trị) ; - So
sánh kết quả các cách giải quyết ; - Lựa
chọn cách giải quyết tối ưu nhất; -
Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn; - Rút
kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác. * Một
số lưu ý Các
vấn đề/ tình huống đưa ra để HS xử lí, giải quyết cần thoả mãn các yêu cầu
sau: - Phù
hợp với chủ đề bài học - Phù
hợp với trình độ nhận thức của HS - Vấn
đề/ tình huống phải gần gũi với cuộc sống thực của HS - Vấn
đề/ tình huống có thể diễn tả bằng kênh chữ hoặc kênh hình, hoặc kết hợp cả
hai kênh chữ và kênh hình hay qua tiểu phẩm đóng vai của HS - Vấn
đề/ tình huống cần có độ dài vừa phải - Vấn
đề/ tình huống phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết, gợi ra cho HS
nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách giải quyết vấn đề. Tổ
chức cho HS giải quyết, xử lí vấn đề/ tình huống cần chú ý: - Các
nhóm HS có thể giải quyết cùng một vấn đề/ tình huống hoặc các vấn đề/ tình
huống khác nhau, tuỳ theo mục đích của hoạt động. - HS
cần xác định rõ vấn đề trước khi đi vào giải quyết vấn đề. - Cần
sử dụng phương pháp động não để HS liệt kê các cách giải quyết có thể có. -
Cách giải quyết tối ưu đối với mỗi HS có thể giống hoặc khác nhau.
2.4.
Phương pháp đóng vai *Bản
chất Đóng
vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định. `Đây là phương pháp nhằm giúp HS suy
nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các
em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của
phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
* Quy trình thực hiện Có
thể tiến hành đóng vai theo các bước sau : -
Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng
nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi
nhóm. - Các
nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. - Các
nhóm lên đóng vai. - Lớp
thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa
của các cách ứng xử. - GV
kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình huống đã cho.
* Một số lưu ý
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài
học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt
quá thời gian cho phép
- Tình huống phải có nhiều cách giải quyết
- Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải
quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.
- Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều
nhóm cùng đóng vai
- Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây
dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai
của các nhóm
- Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV
nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết
- Các vai diễn nên để HS xung phong hoặc tự phân
công nhau đảm nhận
- Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham
gia.
- Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính
hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai. 2.5.
Phương pháp trò chơi
* Bản chất
Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS
tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc
làm thông qua một trò chơi nào đó.
*Quy trình thực hiện
- GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi
cho HS
- Chơi thử ( nếu cần thiết)
- HS tiến hành chơi
- Đánh giá sau trò chơi
- Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi
* Một số lưu ý - Trò
chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc
điểm và trình độ HS, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của
lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho HS.
- HS
phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.
-
Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi. -
Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, tạo điều kiện cho HS
tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi
và đánh giá sau khi chơi. - Trò
chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán
cho HS. - Sau
khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò
chơi. 2.6. Dạy
học theo dự án ( Phương pháp dự án) * Bản
chất Dạy
học theo dự án còn gọi là phương pháp dự án, trong đó HS thực hiện một nhiệm
vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành. Nhiệm
vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến
việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ
yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu
được. * Quy
trình thực hiện -
Bước1: Lập kế hoạch + Lựa
chọn chủ đề + Xây
dựng tiểu chủ đề + Lập
kế hoạch các nhiệm vụ học tập -
Bước 2: Thực hiện dự án + Thu
thập thông tin +
Thực hiện điều tra +
Thảo luận với các thành viên khác +
Tham vấn giáo viên hướng dẫn -
Bước 3: Tổng hợp kết quả +
Tổng hợp các kết quả + Xây
dựng sản phẩm +
Trình bày kết quả +
Phản ánh lại quá trình học tập * Một
số lưu ý Các
dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn
đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng
lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành. Nhiệm
vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS. HS
được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú
cá nhân. Nội
dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau
nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp. Các
dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm
việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Sản
phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản phẩm này
có thể sử dụng, công bố, giới thiệu. 2.7.
PP Bàn tay nặn bội Bàn
tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm,
nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú
trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi
nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra
trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu
hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả
thiết từ hiểu biết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, so
sánh, phân tích, thảo luận và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này kích
thích sự tò mò, ham mê khám phá của học sinh. Vai
trò của GV –HS : Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn
coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm
ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên: Thầy
cô giáo sẽ nêu vấn đề để học sinh tự đi tìm tình huống cần giải quyết thông
qua hoạt động thực hành, thí nghiệm do chính các em tự làm, hoạt động thảo
luận nhóm để đưa ra những giả thiết. Thầy
cô sẽ giúp học sinh chứng minh những giả thiết của các em và cùng các em tìm
ra câu trả lời đúng. Mục
tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa
học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý
nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho
học sinh.
Giảng dạy khoa học dựa trên tìm tòi khám phá. Tiến
trình của 1 giờ dạy theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Bước 1: Đưa ra tình huống có vấn đề
và xác định vấn đề cần giải quyết.
Bước 2: Tổ chức các hoạt động để
giải quyết vấn đề.
Bước 3: Củng cố, định hướng mở rộng Tiến
trình của một thực nghiệm: Gồm có 5 bước:
B1:Đưa ra tình huống có vấn đề.
B2:HS làm việc cá nhân hc theo nhóm
( đưa ra câu hỏi, dự đoán kết quả, giải thích)
B3:Tiến hành thực nghiệm.
B4: So sánh kết quả với dự đoán.
B5: Kết luận, mở rộng. Vai
trò của người giáo viên:
* GV là người hướng dẫn:
- Đề ra
những tình huống, những thử thách.
- Định
hướng các hoạt động.
- Thu
hẹp những cái có thể.
- Chỉ ra
thông tin.
* Giáo viên là người trung gian:
-Là nhà trung
gian giữa "thế giới" khoa học (Các kthức & T.Hành) và HS
- Là người đàm
phán với học sinh những thay đổi nhận thức liên quan với những câu hỏi được
xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với mô hình giải thích hợp
lí.
-Đảm bảo sự
đóan trước và giải quyết các xung đột nhận thức.
-Hành động bên
cạnh với mỗi học sinh cũng như với mỗi nhóm học sinh và cả lớp. Vai
trò của học sinh trong giờ học với PPBTNB:
-HS quan sát
một hiện tượng của thế giới thực tại và gần gũi với chúng về đề tài mà từ đó
chúng sẽ hình thành các nghi vấn.
-HS tìm tòi,
suy nghĩ và đề ra những bước đi cụ thể của thực nghiệm, hoặc chỉnh lí lại
những ca thất bại nhờ tra cứu tư liệu.
-HS trao đổi và
lập luận trong QT hoạt động, chúng chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình,
cọ sát những quan điểm của nhau và hình thành những kết luận tạm thời hoặc
cuối cùng bằng ghi chép, biết phát biểu.
Như vậy là học sinh đã biết nghe lời người khác, hiểu
người khác, tôn trọng người khác và biết bảo vệ ý kiến của mình. 2.8.
PPDH theo góc Là
một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó người học thực hiện các nhiệm
vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong
cách học khác nhau. Học theo góc người học được lựa chọn họat động và phong
cách học: Cơ hội “Khám phá”, ‘Thực hành”; Cơ hội mở rộng, phát triển, sáng
tạo; Cơ hội đọc hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người dạy; Cơ
hội cá nhân tự áp dụng và trải nghiệm. Do vậy, học theo góc kích thích người
học tích cực thông qua hoạt động; Mở rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và
cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu quả bền vững, tương tác mang tính
cá nhân cao giữa thầy và trò, tránh tình trạng người học phải chờ đợi. Ví dụ:
Với chủ đề môi trường hoặc giao thông có thể tổ chức các góc: Viết; Đọc; Vẽ
tranh: Xem băng hình; Thảo luận...về nội dung chủ đề Dạy
học theo góc có những điểm tương đồng với dạy học theo nhóm, theo cặp và một
số phương pháp, kỹ thuật, thủ thuật dạy học khác. Ưu điểm của học theo góc
trong dạy học nói chung và Mỹ thuật nói riêng là người dạy có thể giao nhiều
nhiệm vụ với các mức độ và năng lực khác nhau theo từng nội dung học tập, mỗi
cá nhân tự hoàn thành nhiệm vụ với sự tương tác của người dạy và thành viên
trong nhóm. Mỗi góc phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện đáp ứng nội dung học
tập và nhiệm vụ các góc cùng hướng tới mục tiêu bài học. Dạy học theo
góc có thể áp dụng ở hầu hết các dạng bài học và các bài tập tích hợp kiến
thức nhiều môn học. Ví
dụ: Vẽ theo mẫu – Vẽ tĩnh vật – vẽ mầu Góc
1: Tìm hiểu các bước vẽ - Khám phá Góc
2: Quan sát, nhận xét các bước vẽ - Trải nghiệm Góc
3: Quan sát, nhận xét mẫu – Phân tích Góc
4: Thực hành – Áp dụng Việc
phân chia các góc theo các phong cách và nội dung học tập không nhất thiết
phải đủ tất cả 4 góc như trên, mà có thể linh hoạt tổ chức 2 hoặc 3 góc tùy
theo điều kiện và nội dung học tập, nhằm đảm bảo học sâu, thoải mái. 3. Một số
kĩ thuật dạy học tích cực 3.1 Kĩ
thuật chia nhóm
Khi tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều
cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các
em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một
số cách chia nhóm: * Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo
các loài hoa, các mùa trong năm,…:
- GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm GV
muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím,
vàng,...); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,...); hay
điểm danh theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,...)
- Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một
loài hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm. *
Chia nhóm theo hình ghép
- GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số
HS muốn có là 3/4/5... HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng
với số nhóm mà GV muốn có.
- HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.
- HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một
tấm hình hoàn chỉnh.
- Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm.
* Chia nhóm theo sở thích
GV có thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể
cùng thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của
nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ,
Nhóm Nhà thơ, Nhóm Hùng biện,... *
Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một nhóm. Ngoài
ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn hợp,
nhóm theo giới tính,.... 3.2. Kĩ thuật giao nhiệm vụ -
Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng: +
Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào? +
Nhiệm vụ là gì? + Địa
điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu? +
Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu? +
Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì? + Sản
phẩm cuối cùng cần có là gì? +
Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào? -
Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời gian,
không gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị 3.3. Kĩ
thuật đặt câu hỏi
Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để
gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để
đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi
thêm GV và các HS khác về những ND bài học chưa sáng tỏ.
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS - GV
và HS - HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng
nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn. Mục
đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để: -
Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham
gia vào quá trình dạy học -
Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với
ND học tập - Thu
thập, mở rộng thông tin, kiến thức Khi
đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Câu
hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học -
Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu -
Đúng lúc, đúng chỗ - Phù
hợp với trình độ HS -
Kích thích suy nghĩ của HS -
Phù hợp với thời gian thực tế -
Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. -
Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính -
Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc 3.4 Kĩ thuật khăn trải bàn
- HS được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ
có một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn.
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia
phần xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm ( 4 hoặc
6 người.)
- Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình ( về một vấn
đề nào đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt mình. Sau đó
thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn
trải bàn” 3.5 Kĩ
thuật phòng tranh
Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt
động nhóm. - GV
nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm. - Mỗi
thành viên ( hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những
ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh
lớp học như một triển lãm tranh. - HS
cả lớp đi xem “ triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung. -
Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương
án tối ưu. 3.6 Kĩ
thuật công đoạn - HS
được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ khác
nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo
luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,… - Sau
khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ
luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: Nhóm 1 chuyển
cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm 4 chuyển
cho nhóm 1 - Các
nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển
kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý. - Cứ
như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của nhóm mình cùng
với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến
của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm . Sau khi hoàn thiện
xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học. 3.7 Kĩ
thuật các mảnh ghép - HS
được phân thành các nhóm, sau đó GV phân công cho mỗi nhóm thảo luận, tìm
hiểu sâu về một vấn đề của bài học. Chẳng hạn: nhóm 1- thảo luận vấn đề A,
nhóm 2- thảo luận vấn đề B, nhóm 3- thảo luận vấn đề C, nhóm 4- thảo luận
thảo luận vấn đề D,…. - HS
thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công - Sau
đó, mỗi thành viên của các nhóm này sẽ tập hợp lại thành các nhóm mới, như
vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có đủ các “chuyên gia” về vấn đề A, B, C, D,...và
mỗi “ chuyên gia” về từng vấn đề sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả nhóm
về vấn đề mà em đã có cơ hội tìm hiểu sâu ở nhóm cũ. 3.8 Kĩ
thuật động não Động
não là kĩ thuật giúp cho HS trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý
tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên được cổ vũ tham
gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng ( nhằm tạo ra cơn lốc các ý
tưởng).
Động não thường được: -
Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề - Sử
dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề -
Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau
Động não có thể tiến hành theo các bước sau : -
Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề ( có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu
trước cả lớp hoặc trước nhóm. -
Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt. -
Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến
nào, trừ trường hợp trùng lặp. -
Phân loại các ý kiến. - Làm
sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng -
Tổng hợp ý kiến của HS và rút ra kết luận. 3.9 Kĩ
thuật “ Trình bày một phút”
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt
những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày
ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả
lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy
được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. Kĩ
thuật này có thể tiến hành như sau: -
Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các
câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em,
vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?... - HS
suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức khác
nhau. - Mỗi
HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học
được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn
được tiếp tục tìm hiểu thêm. 3.10 Kĩ
thuật “Chúng em biết 3” - GV
nêu chủ đề cần thảo luận. - Chia
HS thành các nhóm 3 người và yêu cầu HS thảo luận trong vòng 10 phút về những
gì mà các em biết về chủ đề này. - HS
thảo luận nhóm và chọn ra 3 điểm quan trọng nhất để trình bày với cả
lớp. - Mỗi
nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày về cả 3 điểm nói trên. 3.11 Kĩ
thuật “ Hỏi và trả lời” Đây
là KTDH giúp cho HS có thể củng cố, khắc sâu các kiến thức đã học thông qua
việc hỏi và trả lời các câu hỏi. Kĩ
thuật này có thể tiến hành như sau: - GV
nêu chủ đề . - GV
(hoặc 1 HS) sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu một HS
khác trả lời câu hỏi đó. - HS
vừa trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại được đặt tiếp một câu hỏi nữa và yêu
cầu một HS khác trả lời. - HS
này sẽ tiếp tục quá trình trả lời và đặt câu hỏi cho các bạn cùng lớp,... Cứ
như vậy cho đến khi GV quyết định dừng hoạt động này lại. 3.12 Kĩ
thuật “Hỏi Chuyên gia” - HS
xung phong (hoặc theo sự phân công của GV) tạo thành các nhóm “chuyên gia” về
một chủ đề nhất định. - Các
”chuyên gia” nghiên cứu và thảo luận với nhau về những tư liệu có liên quan
đến chủ đề mình được phân công. -
Nhóm ”chuyên gia” lên ngồi phía trên lớp học - Một
em trưởng nhóm ”chuyên gia” (hoặc GV) sẽ điều khiển buổi “tư vấn”, mời các
bạn HS trong lớp đặt câu hỏi rồi mời ”chuyên gia” giải đáp, trả lời. 3.13 Kĩ
thuật “Lược đồ Tư duy”
Lược đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng
những ý tưởng hay kết quả làm việc của cá nhân/ nhóm về một chủ đề. -
Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm. - Từ
chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính
viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý
tưởng trung tâm nói trên. - Từ
mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh
chính đó. -
Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. 3.14 Kĩ
thuật ”Hoàn tất một nhiệm vụ” - GV
đưa ra một câu chuyện/một vấn đề/một bức tranh/một thông điệp/... mới chỉ
được giải quyết một phần và yêu cầu HS/nhóm HS hoàn tất nốt phần còn lại. -
HS/nhóm HS thực hiện nhiệm vụ được giao. - HS/
nhóm HS trình bày sản phẩm. - GV
hướng dẫn cả lớp cùng bình luận, đánh giá Lưu
ý: GV cần hướng dẫn HS cẩn thận và cụ thể để các em hiểu được nhiệm vụ của
mình. Đây là một hoạt động tốt giúp các em đọc lại những tài liệu đã học hoặc
đọc các tài liệu theo yêu cầu của giáo viên. 3.15 Kĩ
thuật “Viết tích cực”
- Trong quá trình thuyết trình, GV đặt câu hỏi và dành thời gian cho HS tự do
viết câu trả lời. GV cũng có thể yêu cầu HS liệt kê ngắn gọn những gì các em
biết về chủ đề đang học trong khoảng thời gian nhất định.
- GV yêu cầu một vài HS chia sẻ nội dung mà các em đã viết trước lớp.
Kĩ thuật này cũng có thể sử dụng sau tiết học để tóm tắt nội dung đã
học, để phản hồi cho GV về việc nắm kiến thức của HS và những chỗ các
em còn hiểu sai. 3.16
Kĩ thuật ”đọc hợp tác” (còn gọi là đọc tích cực)
Kĩ thuật này nhằm giúp HS tăng cường khả năng tự
học và giúp GV tiết kiệm thời gian đối với những bài học/phần đọc có nhiều
nội dung nhưng không quá khó đối với HS.
Cách tiến hành như sau:
- GV nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng HS đọc
bài/phần đọc.
- HS làm việc cá nhân:
+ Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, HS cần đọc
lướt qua bài đọc/phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm
từ quan trọng.
+ Đọc và đoán nội dung : HS đọc bài/phần đọc và
biết liên tưởng tới những gì mình đã biết và đoán nội dung khi đọc những từ
hay khái niệm mà các em phải tìm ra.
+ Tìm ý chính: HS tìm ra ý chính của bài/phần đọc
qua việc tập trung vào các ý quan trọng theo cách hiểu của mình.
+ Tóm tắt ý chính.
- HS chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2,
hoặc 4 và giải thích cho nhau thắc mắc (nếu có), thống nhất với nhau ý chính
của bài/phần đọc đọc.
- HS nêu câu hỏi để GV giải đáp (nếu có). Lưu
ý: Một số câu hỏi GV thường dùng để giúp HS tóm tắt ý chính:
- Em có chú ý gì khi đọc ............ ? - Em
nghĩ gì về................... ? - Em
so sánh A và B như thế nào? - A
và B giống và khác nhau như thế nào? - ... 3.17
Kĩ thuật ”Nói cách khác” - GV
chia HS thành các nhóm, yêu cầu các nhóm hãy liệt kê ra giấy khổ lớn 10 điều
không hay mà thỉnh thoảng người ta vẫn nói về một ai đó/việc gì đó. -
Tiếp theo, yêu cầu các nhóm hãy tìm 10 cách hay hơn để diễn đạt cùng những ý
nghĩa đó và tiếp tục ghi ra giấy khổ lớn. - Các
nhóm trình bày kết quả và cùng nhau thảo luận về ý nghĩa của việc thay đổi
cách nói theo hướng tích cực. 3.18.
Phân tích phim Video
Phim video có thể là một trong các phương tiện để truyền đạt nội dung
bài học. Phim nên tương đối ngắn gọn (5-20 phút). GV cần xem qua trước để đảm
bảo là phim phù hợp để chiếu cho các em xem.
- Trước khi cho HS xem phim, hãy nêu một số câu hỏi thảo luận hoặc liệt kê
các ý mà các em cần tập trung. Làm như vây sẽ giúp các em chú ý tốt hơn.
- HS xem phim
- Sau khi xem phim video, yêu cầu HS làm việc một mình hoặc theo cặp và trả
lời các câu hỏi hoặc viết tóm tắt những ý cơ bản
về nội dung phim đã xem. 3.19.Tóm
tắt nội dung tài liệu theo nhóm
Hoạt động này giúp HS hiểu và mở rộng hiểu biết của các em về
những tài liệu đọc bằng cách thảo luận, nghe, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Cách thực hiện như sau: - HS
làm việc theo nhóm nhỏ, đọc to tài liệu được phát, thảo luận về ý nghĩa của
nó, chuẩn bị trả lời các câu hỏi về bài đọc. - Đại
diện nhóm trình bày các ý chính cho cả lớp. - Sau
đó, các thành viên trong nhóm lần lượt trả lời các câu hỏi của các bạn khác
trong lớp về bài đọc 3.20 Kỹ
thuật XYZ (Còn gọi là kỹ thuật 635) Giới
thiệu: Kỹ
thuật XYZ là một kỹ thuật làm việc nhóm nhằm phát huy tính tích cực của mỗi
thành viên trong nhóm, trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi thành viên cần
đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường mỗi nhóm có 6
thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng thời gian 5 phút,
do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635. Dụng
cụ: Giấy
bút cho các thành viên. Thực
hiện: Giáo
viên chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng và thời gian
theo đúng quy tắc XYZ. Các
thành viên trình bày ý kiến của mình, hoặc gởi ý kiến về cho thư ký tổng hợp,
sau đó tiến hành đánh giá và lựa chọn. Lưu
ý: Số
lượng thành viên trong nhóm nên tuân thủ đúng quy tắc để tạo tính tương đồng
về thời gian, giáo viên quy định thời gian và theo dõi thời gian cụ thể. Ưu
điểm: Có
yêu cầu cụ thể nên buộc các thành viên đều phải làm việc. Hạn
chế: Cần
dành nhiều thời gian cho hoạt động nhóm, nhất là quá trình tổng hợp ý kiến và
đánh giá ý kiến. 3.21 Kỹ
thuật "Bể cá" Giới
thiệu: Kỹ
thuật bể cá là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm thành
viên ngồi giữa phòng và thảo luận với nhau, còn những thành viên khác ngồi
xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc
thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những thành viên đang
thảo luận. Trong
nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. Các thành viên tham
gia nhóm quan sát có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào
cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát
biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này
được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có
thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một
bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người
thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau. Dụng
cụ: Giấy
bút cho các thành viên. Thực
hiện: Một
nhóm trung tâm sẽ tiến hành thảo luận chủ đề của giáo viên đưa ra, các thành
viên còn lại của lớp sẽ ngồi xung quanh, tập trung quan sát nhóm đang thảo
luận. Lưu
ý: Bảng câu hỏi cho những người quan sát: ·
Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không? ·
Họ có nói một cách dễ hiểu không? ·
Họ có để những người khác nói hay không? ·
Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không? ·
Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không? ·
Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không? ·
Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không? Ưu
điểm: ·
Vừa giải quyết được vấn đề, vừa phát triển kỹ năng quan
sát và giao tiếp của người học. Hạn
chế: ·
Cần có không gian tương đối rộng. ·
Nhóm trung tâm khi thảo luận cần có thiết bị âm thanh, hoặc cần phải
nói to. ·
Các thành viên quan sát có xu hướng không tập trung vào chủ đề thảo
luận. 3.22 Kỹ thuật Kipling (5W1H) (What, where, when, who, why, how). Dụng
cụ: Giấy
bút cho người tham gia. Thực
hiện: Các
câu hỏi được đưa ra theo thứ tự ngẫu nhiên hoặc theo một trật tự định ngầm
trước, với các từ khóa: Cái gì, Ở đâu, Khi nào, Thế nào, Tại sao, Ai. Ví
dụ: Vấn đề là gì? Vấn
đề xảy ra ở đâu? Vấn
đề xảy ra khi nào? Tại
sao vấn đề lại xảy ra? Làm
thế nào để giải quyết vấn đề? Ai sẽ
tham gia giải quyết vấn đề? Khi
nào thì vấn đề giải quyết xong? Lưu
ý: Các
câu hỏi cần ngắn gọn, đi thẳng vào chủ đề. Các
câu hỏi cần bám sát vào hệ thống từ khóa 5W1H (What, where, when, who, why,
how). Ưu
điểm: Nhanh
chóng, không mất thời gian, mang tính logic cao. Có
thể áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau. Có thể áp dụng cho cá nhân. Hạn
chế: Ít có
sự phối hợp của các thành viên. Dễ
dẫn đến tình trạng “9 người 10 ý”. Dễ tạo cảm giác “Bị điều tra”. 3.23. Kỹ
thuật KWL-KWLH Giới
thiệu: KWL
do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt
động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã
biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K của biểu đồ.
Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết
thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W của biểu
đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các
câu hỏi ở cột W, các thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L. Từ
biểu đồ KWL, Ogle bổ sung thêm cột H ở sau cùng, với nội dung khuyến khích
học sinh định hướng nghiên cứu. Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột
L, các em có thể muốn tìm hiểu thêm về một thông tin. Các em sẽ nêu biện pháp
để tìm thông tin mở rộng. Những biện pháp này sẽ được ghi nhận ở cột H. Dụng
cụ: Bảng
KWL (KWLH) dành cho học sinh. Bảng
KWL (KWLH) dành cho giáo viên. Thực
hiện: Chọn
bài đọc - Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang ý nghĩa
gợi mở, tìm hiểu, giải thích. Tạo bảng KWL - Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng của các em. Có thể sử dụng mẫu sau. Đề
nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ
đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động
này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh
thảo luận về những gì các em đã ghi nhận. Hỏi
học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo viên và học
sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu
ra tất cả các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình
thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W. Yêu
cầu học sinh đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L. Trong
quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và ghi
nhận vào cột W. Học sinh có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã
đọc xong. Lưu
ý: Chuẩn
bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động, học sinh
cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em : “Hãy nói những gì các em đã
biết về…” Khuyến
khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các
em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường. Hỏi
những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em : “Các em muốn biết thêm
điều gì về chủ đề này?” - đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, vì
các em chưa có ý tưởng. Chuẩn
bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể bạn mong
muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của
học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là
không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn
là những câu hỏi của học sinh. Ngoài
việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các
em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng
của các em. Khuyến
khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W
nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc. Ưu
điểm: Tạo
hứng thú học tập cho học sinh, khi những điều các em cần học có liên quan
trực tiếp đến nhu cầu về kiến thức của các em. Giúp
học sinh dần dần hình thành khả năng tự định hướng học tập, nắm được cách học
không chỉ cho môn đọc hiểu mà cho các môn học khác. Giúp
giáo viên và học sinh tự đánh giá kết quả học tập, định hướng cho các hoạt
động học tập kế tiếp. Hạn
chế: Sơ đồ cần phải được lưu trữ cẩn thận sau khi hoàn thành hai bước K và W, vì bước L có thể sẽ phải mất một thời gian dài mới có thể tiếp tục thực hiện. 3.24. Kỹ thuật “ổ bi” Là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó học sinh chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để tạo điều kiện cho mỗi học sinh có thể nói chuyện lần lượt với các học sinh ở nhóm khác. Cách thực hiện : Khi thảo luận, mỗi học sinh ở vòng trong sẽ trao đổi với học sinh đối diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác. Sau một ít phút thì học sinh vòng ngoài ngồi yên, học sinh vòng trong chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác mới. 3.25. Kỹ
thuật tia chớp Là
một kỹ thuật huy động sự tham gia của các thành viên đối với một câu hỏi nào
đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và
không khí học tập trong lớp, thông qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn
gọn và nhanh chóng (nhanh như tia chớp) ý kiến của mình về một câu hỏi hoặc
tình trạng vấn đề. Quy tắc thực hiện : Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào; lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận. Ví dụ : bạn có hứng thú với chủ đề này không?; mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình; chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến. 3.26. Kỹ
thuật “3 lần 3” Là
một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự tham gia tích cực của
học sinh. Cách
làm như sau : Học sinh được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó
(Nội dung thảo luận, phương pháp tiến hành thảo luận ...); mỗi người cần viết
ra : 3 điều tốt, 3 điều chưa tốt, 3 đề nghị cải tiến. Sau khi thu thập ý kiến
thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi |